Thứ Năm, 24 tháng 12, 2015

Lịch sử BMW – Phần 1 – Những bước ngoặt của thương hiệu BMW

Lịch sử BMW – Phần 1 – Những bước ngoặt của thương hiệu BMW

BMW AG (Bayerische Motoren Werke) là hãng sản xuất xe hơi, mô tô của Đức. BMW AG được thành lập từ 3 hãng khác nhau; Rapp Motorenwerke, Bayerische Flugzeugwerke (BFw) ở Bavaria và Fahrzeugfabrik Eisenach ở Thuringia.



BMW AG còn được gọi với tên vắn tắt là BMW, thành lập vào ngày 07.03.1916. Ngày nay, BMW có trụ sở chính đặt tại Munich, Bavaria, Đức.
BMW cũng sỡ hữu thương hiệu Mini và là công ty mẹ của hãng Rolls-Royce Motor Cars. Trong năm 2010, tập đoàn BMW sản xuất 1.481.253 xe ô tô và 112.271 xe mô tô trên tất cả các thương hiệu của mình.
BMW là 1 trong 3 hãng lớn nhất bên cạnh Audi và Mercedes-Benz tại Đức.
Lịch sử hình thành
**Về nhà sáng lập Gustav Otto Flugmaschinenwerke
Gustav Otto (12.01.1883 – 28.02.1926), ông là con trai của nhà phát minh động cơ đốt trong, Nikolaus August Otto. Gustav Otto là một phi công tiên phong ở Bavaria.

Gustav Otto bên cạnh động cơ máy bay Argus

Năm 1910, Otto được cấp giấy phép bằng lái máy bay, khi ấy ông điều khiển chiếc máy bay 2 tầng cánh Aviatik. Trong cùng năm đó, Otto thành lập một trường đào tạo và nhà máy sản xuất động cơ máy bay Gustav Otto Flugmaschinenwerke năm 1913, nằm trên đường Lerchenauer Strasse, phía đông của quân trường Oberwiesenfeld ở Milbertshofen, Munich.
Otto đang tập trung xây dựng chiếc máy bay 2 tầng cánh Farman và trở thành nhà cung cấp chính cho Royal Bavarian Flying Corps.


Nhà máy sản xuất động cơ máy bay Gustav Otto Flugmaschinenwerke

Gustav Otto Flugmaschinenwerke đổi tên thành Otto Werke vào tháng 01 năm 1915. Hãng đã không nhận được đơn đặt hàng từ quân đội Phổ do vấn đề chất lượng không được đảm bảo. Quân đội Phổ kêu gọi Otto sửa đổi dây chuyền sản xuất của mình nhưng các vấn đề vẫn không giải quyết được. Sự căng thẳng của thời chiến đã tạo áp lực quá lớn lên Gustav. Trong năm 1915, ông được đưa vào bệnh viện tâm thần ở Munich để điều trị chứng trầm cảm lâm sàng.

Gustav Otto Flugmaschinenwerke sau khi đổi tên thành Otto Werkee
Khó khăn về mặt tài chính, công ty Otto Werke đã được mua bởi một tập đoàn, trong đó có MAN AG, cũng như một số ngân hàng vào tháng 02 năm 1916.
Gustav Otto cũng sở hữu một công ty khác có tên là AGO Werke, được thành lập vào năm 1914 để phát triển các loại máy bay khác của Otto-Werke nhưng AGO Werke cũng gặp khó khăn về tài chính giống như Otto Werke nên đã phải đóng cửa vào năm 1918. Năm 1926, từ những thất bại trong kinh doanh, cái chết của vợ và các vấn đề sức khỏe, Gustav Otto đã tự tử ở tuổi 43.
Bayerische Flugzeugwerke (BFw)
Một tháng sau khi mua Otto Werke, các nhà đầu tư thành lập một doanh nghiệp mới, Bayerische Flugzeugwerke AG (BFw). BFw sản xuất máy bay theo giấy phép của Flugzeugwerke Albatros (Flugzeugwerke Albatros là nhà sản xuất máy bay nổi tiếng nhất của Đức, cung cấp cho lực lượng không quân Đức trong Thế chiến I). Chỉ trong vòng một tháng xếp đặt, công ty đã có thể cung cấp máy bay cho quân đội Phổ và Bavaria.
Tuy nhiên, vấn đề chất lượng lại bắt đầu với phi hành đoàn không quân Đức, thường xuyên bị phàn nàn về khuyết điểm nghiêm trọng từ các động cơ đầu tiên của BFw. Điều này cũng đã từng xảy ra với máy bay được sản xuất dưới thời Otto Werke. Những thiếu sót này là do sự thiếu chính xác trong sản xuất. Phần lớn lực lượng lao động của BFw đều từ Otto Werke. Việc thay đổi tổ chức và giám sát dây chuyền lắp ráp chuyên sâu hơn đã giải quyết những vấn đề này vào cuối năm 1916. Trong những tháng sau đó, BFw đã có thể sản xuất hơn 100 máy bay mỗi tháng với lực lượng lao động khoảng 3.000 người và vươn lên trở thành nhà sản xuất máy bay lớn nhất ở Bavaria.
Sự kết thúc của cuộc chiến tranh đã làm cho BFw gặp khó khăn vì nhu cầu cho máy bay quân sự bị sụt giảm nặng. Người quản lý công ty buộc phải tìm các sản phẩm mới để tồn tại. Bởi vì máy bay phần lớn được xây dựng từ gỗ vào thời điểm đó, BFw được trang bị các nhà máy mộc hiện đại và vật liệu đủ để sản xuất 200 máy bay,. Công ty sử dụng các máy móc thiết bị và nguyên vật liệu để sản xuất đồ nội thất và nhà bếp.
Ngoài ra, từ năm 1920 trở đi, hãng cũng cho ra đời chiếc xe đạp có gắn động cơ được gọi là Flink và xe gắn máy Helios.

BFw Flink đời 1920 với kiểu dáng như một chiếc xe đạp nhưng được trang bị thêm động cơ 2 kỳ, dung tích 148cc. Flink được sản xuất từ năm 1920-1922


Chiếc BFw Helios được trang bị động cơ của BMW M2B15





Rapp Motorenwerke
Năm 1913, Karl Friedrich Rapp thành lập Rapp Motorenwerke gần Oberwiesenfeld. Rapp đã chọn địa điểm gần Gustav Otto Flugmaschinenwerke (Otto Werke), người mà ông đã ký hợp đồng để cung cấp động cơ máy bay loại 4 xy-lanh.

Karl Friedrich Rapp (24.09.1882 tại Ehingen – 26.05.1962 tại Locarno)



Nơi làm việc của những người thợ tại Rapp Motorenwerke


Rapp cũng ký hợp đồng phụ với Austro-Daimler để sản xuất động cơ máy bay V12 của họ. Austro-Daimler vào thời điểm đó không thể sản xuất đủ để đáp ứng nhu cầu về động cơ V12 này. Nhân viên giám sát sản xuất động cơ tại Austro-Daimler thay mặt cho chính phủ Áo là Franz Josef Popp, được ủy quyền để giám sát chất lượng động cơ tại Rapp Motorenwerke.


Franz Josef Popp (14.01.1886 tại Vienna – 29.07.1954 tại Stuttgart)

Popp không chỉ làm tốt vai trò của người giám sát mà còn tích cực tham gia trong việc quản lý tổng thể của công ty. Vào ngày 07 tháng 03 năm 1916, Rapp Motorenwerke trở thành Bayerische Motoren Werke GmbH (đây được xem là mốc thời gian thành lập của hãng BMW). Popp thuyết phục Karl Friedrich Rapp nhận Max Friz (kỹ sư thiết kế động cơ máy bay tại Daimler) vào làm.


Nhà thiết kế huyền thoại Max Friz (01.10.1883 tại Urach – 09.06.1966 tại Tegernsee)

Lúc đầu, Karl Friedrich Rapp không đồng ý nhưng Popp đã thuyết phục Karl Friedrich Rapp chấp nhận Max Friz, bởi vì ông biết Rapp Motorenwerke cần phải có một nhà thiết kế. Trong vòng vài tuần, Friz đã chế tạo ra động cơ máy bay với bộ chế hòa khí mới và một loạt các chi tiết kỹ thuật khác cao cấp hơn bất kỳ động cơ máy bay khác trước đây của Đức.

Bayerische Motoren Werke GmbH 1917
Năm 1917, Karl Friedrich Rapp có vấn đề về sức khoẻ cũng như trong việc thiếu khả năng quản lý nên ông đã rời khỏi công ty. Sau đó, công ty được tái thiết lại với tên BMW GmbH. Max Friz chịu trách nhiệm về mặt phát triển kỹ thuật còn Franz Josef Popp được bổ nhiệm làm Giám đốc điều hành vào ngày 04.10.1917. Popp giữ vị trí này cho đến khi ông nghỉ hưu vào năm 1942.
Ngày 13.08.1918 BMW GmbH (Công ty trách nhiệm hữu hạn BMW) đã chuyển thành BMW AG (Công ty cổ phần BMW) như chúng ta biết ngày nay.
Sau khi bán và rời khỏi Rapp Motorenwerke, Karl Friedrich Rapp trở thành kỹ sư trưởng của THE Riedlinger Machine Factory, ông làm việc tại đây tới tháng 10.1923. Sau đó, năm 1934 Karl Friedrich Rapp chuyển đến sống tại Thụy Sĩ, nơi ông đam mê với việc nghiên cứu năng lượng mặt trời. Ông mất vào năm 1962 tại Locarno, Thụy Sĩ.
Vinh quang thời tiền chiến
Trong thời gian của năm 1917 và 1918, kỹ sư Max Friz đã tạo nên tiếng tăm cho BMW qua phát minh động cơ máy bay với bộ chế hòa khí mới có thể hoạt động ở độ cao và được làm mát bằng nước. Thiết kế mới này giúp BMW nhận được đơn đặt hàng hơn 2.000 động cơ từ Bộ chỉ huy Lục quân Phổ.
Thời hậu chiến
Vào ngày 13 tháng 09 năm 1919, Franz Zeno Diemer thiết lập một kỷ lục thế giới về độ cao với chiếc máy bay chở khách Junkers F.13 được hỗ trợ bởi động cơ BMW IIIa, đã chở tổng cộng 8 ​​người và bay ở độ cao 6.750m.


Động cơ BMW IIIa được ứng dụng bộ chế hòa khí mới do kỹ sư Max Friz chế tạo, cho công suất 180 mã lực, nó hoạt động tốt ở độ cao và được làm mát bằng nước.

Junkers F.13 là loại máy bay vận tải được chế tạo hoàn toàn bằng kim loại đầu tiên trên thế giới

Chiến tranh kết thúc và Hiệp ước Versailles được ký kết (28.06.1919) thì đó cũng là thời điểm đặt dấu chấm hết của BMW; Hiệp định Hòa bình Versailles có điều khoản cấm sản xuất động cơ máy bay ở Đức trong vòng 5 năm.
BMW – Bắt đầu một khởi đầu mới
Năm 1923, tại nhà máy Eisenach mới được xây dựng gần sân bay Munich. Chiếc mô tô đầu tiên của BMW R32 được ra mắt. BMW sản xuất 3.090 chiếc R32 trong suốt 3 năm. Sau chiến tranh thế giới thứ I, thương hiệu xe mô tô của BMW được biết với tên là BMW Motorrad.

Chiếc BMW R32 năm 1923 dẫn động bánh sau bằng trục lap



R32 sử dụng động cơ phẳng kép nằm ngang đặt trên khung dạng ống kép, động cơ 2 xy-lanh với dung tích 494cc cho công suất 8.5hp tại vòng tua máy 3.300 vòng/phút, tốc độ tối đa 95km/h



Bảng đồng với nét thiết kê đơn sơ trên R32





Vào năm 1928, BMW mua hãng Fahrzeugfabrik Eisenach và năm 1928 cũng là một dấu mốc quan trọng trong lịch sử BMW. Sản xuất tại nhà máy Fahrzeugfabrik Eisenach, chiếc Dixi 3/15 PS DA-1 ra đời, đánh dấu sự khởi đầu trong việc sản xuất ô tô của BMW. Dixi 3/15 PS DA-1 được chế tạo theo bản quyền của Austin và cũng giống các mẫu Bantam tại Mỹ và Datsun tại Nhật.


Chiếc Dixi đầu tiên sử dụng mui có thể mở được, được trang bị động cơ 4 xy-lanh, dung tích 747cc cho công suất 15hp, tốc độ tối đa khoảng 80km/h, kết hợp với hộp số tay 3 cấp





Năm 1929 một phiên bản cải tiến được ra đời, chiếc DA2 với khung gầm hoàn toàn bằng thép và trang bị hệ thống phanh ở 4 bánh. Năm 1930, chiếc Dixi đã giành được chiến thắng đầu tiên trên đường đua.
Tổng sản lượng mẫu xe này được sản xuất lên tới 18.976 chiếc.

DA2 vẫn được lắp động cơ 4 xy-lanh, dung tích 747cc cho công suất 15 mã lực

Năm 1932 là năm ra đời mẫu BMW AM4 (Ausfuhrung Munchen 4 Gange – Munich Version 4 Speeds) – mẫu xe đầu tiên được phát triển hoàn toàn bởi BMW đi vào sản xuất.
AM4 còn được gọi với tên 3/20 PS, là thế hệ kế tiếp của Dixi. BMW AM4 trang bị động cơ 4 xy-lanh, dung tích 782cc cho công suất 20 mã lực tại vòng tua máy 3.500 vòng/phút và tốc độ tối đa 80km/h.


BMW 3/20 PS (AM4) được xuất xưởng từ 1932-1934, với 7.215 chiếc.

Năm tiếp theo, 1933, đánh dấu sự ra đời của mẫu Sedan 303 – mẫu xe đầu tiên của BMW trang bị động cơ 6 xy-lanh mạnh mẽ, điểm đặc biệt này đã trở thành đặc trưng và luôn là tuỳ chọn đối với những chiếc xe của BMW cho đến ngày nay.


Mẫu 303 cũng là chiếc BMW đầu tiên trang bị lưới tản nhiệt hình quả thận đối xứng và nó đã trở thành nét đặc trưng đầy quyến rũ của thương hiệu BMW.


Với khung làm bằng thép ống, hệ thống treo trước độc lập và truyền động bánh răng, 303 đánh dấu mốc quan trọng trong thành tựu công nghệ. Động cơ 1.173cc cho công suất 30hp. Tốc độ tối đa 90km/h.


Năm 1934, BMW cho ra đời chiếc 315-1 Roadster rất sang trọng. 315-1 Roadster lắp động cơ 6 xy-lanh, dung tích 1.5L cho công suất 40 mã lực. Tốc độ tối đa khoảng 125km/h.


BMW 315-1 Roadster đã giành chiến thắng ở trận đua 2.000km trên toàn nước Đức





Phần mui mềm để bảo vệ nội thất rất thú vị của BMW 315-1 Roadster

Vào năm 1936, BMW 328 được ra mắt. Đây là mẫu xe nổi tiếng nhất trong lịch sử BMW (body kit của 328 được thiết kế bởi Peter Szymanowski) và là chiếc BMW thể thao được yêu thích nhất thời kỳ trước Thế Chiến Thứ 2, là thế hệ kế tiếp của 315/1 (1934-1936).
BMW 328 được chế tạo chủ yếu để tham gia các giải đua, nơi nó chứng tỏ khả năng của mình bằng chiến thắng giải Mille Miglia tại Italy năm 1938 nhưng sau đó, 328 cũng trở nên nổi tiếng trên cả đường trường.

BMW 328 lắp động cơ 6 xy-lanh, dung tích 1.971cc cho công suất lên tới 79 mã lực tại vòng tua máy 5.000 vòng/phút và đạt tốc độ tối đa 150km/h. Tổng cộng chỉ có 464 chiếc 328 được xuất xưởng từ năm 1936-1940.


Trọng lượng của 328 chỉ 830kg, nhờ cấu trúc khung gầm hình ống bằng chất liệu cực nhẹ và các bộ phận được chế tạo bằng hợp kim nhẹ như; capô, cửa và đuôi xe.
Thông tin về phiên bản kỷ niệm 75 năm mẫu BMW 328 ra đời; BMW 328 Hommage
Vào ngày 23.05.2011, BMW đã giới thiệu chiếc 328 Hommage tại Mille Miglia, Italy. Kiểu dáng 328 Hommage vừa hiện đại vừa mang nét cổ điển, được thiết kế bởi hai nhà thiết kế người Đức Fritz Fiedler và Rudolf Schleicher.

BMW 328 Hommage kỷ niệm 75 năm mẫu BMW 328 ra đời
BMW chưa tiết lộ chi tiết về thông số kỹ thuật của 328 Hommage. Chỉ biết 328 Hommage sẽ được trang bị động cơ 6 xy-lanh, dung tích 3.0L.

Bộ La-zăng chế tạo bằng sợi carbon

Karl Baumer giám đốc điều hành BMW Group Classic cho biết: “Với 328 Hommage, chúng tôi muốn bày tỏ lòng kính trọng niềm đam mê và sáng tạo với những người đã khai sinh ra mẫu BMW 328, họ đã tạo ra một bước ngoặt lớn trong ngành công nghiệp ô tô”.


Mẫu BMW 328 được xuất xưởng những năm 1936-1940 với tổng cộng 464 chiếc


Phần nội thất thiết kế quá tinh xảo và nổi bật



Nội thất bọc da và nhiều chi tiết động cơ được lấy cảm hứng từ 328


Khóa đai an toàn được làm từ nhôm và sợi carbon


BMW 328 Hommage có trọng lượng khoảng 780kg, bởi phần lớn ngoại thất và nội thất được chế tạo bằng hổn hợp nhựa và sợi carbon


Nội thất có thể chịu được nước mưa nên bạn yên tâm nhé!

BMW lại ghi danh mình vào sách kỷ lục thế giới vào ngày 28 tháng 11 năm 1937. Ernst Jakob Henne trên chiếc xe hai bánh được trang bị động cơ dung tích 500cc, công suất 108 mã lực đã trở thành người đàn ông nhanh nhất thế giới với tốc độ 279.508 km/h trên đường cao tốc Frankfurt-Darmstadt. Kỷ lục này được giữ đến 14 năm sau đó.


Ernst Jakob Henne (22.02.1904 – 23.05.2005) bên chiếc mô tô mà ông đã lập kỷ lục với tốc độ 279.508 km/h


Không tìm thấy tài liệu của BMW đề cập về chiếc mô tô này. (Nếu bạn biết thông tin về mẫu mô tô này thì bình luận bên dưới để bổ sung vào bài viết cho hoàn chỉnh nhé!).


Thành công đã không ở lại lâu dài với BMW. Năm 1939, Chiến tranh thế giới lần II bùng nổ, BMW trở thành nhà sản xuất xe máy và động cơ máy bay chuyên dụng cho quân đội Đức.
Khi chiến tranh kết thúc năm 1945 cũng là lúc những nhà máy ở Đông Đức bị phá huỷ nặng nề, còn ở Munich quang cảnh trở nên hoang tàn và đổ nát. Một lệnh cấm mọi hoạt động sản xuất trong suốt 3 năm do lực lượng Đồng Minh đặt ra nhằm trừng phạt việc BMW đã sản xuất động cơ máy bay và tên lữa trong thời chiến.




















Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét