Thứ Bảy, 26 tháng 12, 2015

Lịch sử của Audi (Phần 1) August Horch con người đầy tài năng

Lịch sử hãng Audi 

Phần 1 – August Horch con người đầy tài năng



Logo Audi AG với 4 vòng tròn bằng nhau tượng trưng cho sự đoàn kết và tôn trọng lẫn nhau
Audi AG là hãng sản xuất ô tô danh tiếng của Đức có trụ sở chính đặt tại Ingolstadt, Bavaria và gần như thuộc sở hữu của Volkswagen Group (99.55%) từ năm 2012.
Audi AG có tiền thân từ Auto Union AG với logo là 4 vòng tròn đan xen vào nhau. Sau Thế chiến thứ 2, nhà máy sản xuất của Auto Union AG tại Saxony bị sung công và tháo dỡ bởi quân đội Xô Viết. Một số Giám đốc cấp cao của công ty chuyển đến Bavaria và thành lập công ty mới năm vào 1949 với tên gọi Auto Union GmbH và tiếp tục công việc sản xuất ô tô với logo là 4 vòng tròn đan xen vào nhau.
Auto Union GmbH và NSU sát nhập vào năm 1969 để thành lập Audi NSU Auto Union AG. Năm 1985, công ty đổi tên thành Audi AG và trụ sở chính được chuyển về Ingolstadt như ngày nay.
Lịch sử hình thành
Auto Union AG được hình thành từ việc sát nhập 4 công ty khác vào năm 1932, bao gồm; Horch & Cie (thành lập năm 1899), Audi (thành lập năm 1909), DKW (thành lập năm 1904) và Wanderer (thành lập năm 1896). Auto Union AG trở thành hãng sản xuất ô tô lớn thứ 2 tại thời điểm đó.
1. August Horch
August Horch là một trong những người đi tiên phong trong ngành công nhiệp ô tô Đức. Tốt nghiệp trường Cao đẳng Kỹ thuật tại thị trấn Mittweida, Saxony. August Horch bắt đầu làm việc tại nhà máy sản xuất động cơ tại Carl Benz, Mannheim. Sau đó, ông nhanh chóng trở thành Giám đốc bộ phận chế tạo động cơ.

Vĩ nhân August Horch

Năm 1899, ông quyết định thành lập công ty Horch & Cie của riêng mình tại Cologne. Ông là người đầu tiên ở Đức sử dụng nhôm nguyên khối để chế tạo động cơ và vỏ hộp số. Khớp các-đăng đóng vai trò truyền động và bánh răng bằng thép chịu lực.

Logo thương hiệu Horch

Năm 1902, ông chuyển đến Reichenbach, Saxony và sau đó đến Zwickau vào năm 1904. Sau khi chuyển đến Zwickau, Horch cho ra đời mẫu xe sử dụng động cơ 2 xy-lanh và sau đó là phiên bản 4 xy-lanh. Động cơ này mạnh mẽ đến nỗi chiếc xe của Horch giành được thắng lợi tại cuộc đua Herkomer Run năm 1906, một cuộc đua đường trường khắc nghiệt nhất thế giới. Hai năm sau, lần đầu tiên công ty lập kỷ lục đạt doanh số hơn 100 xe/năm.
Vào ngày 16.07.1909, Fikentscher Paul đổi tên công ty thành Horch-Werke, vì xảy ra tranh chấp với August Horch, sau những bất đồng với Ban giám đốc và Hội đồng quản trị, August Horch rời khỏi công ty mình đã tạo dựng và nhanh chóng thành lập một công ty ô tô khác tại Zwickau. Do tên của ông đã được đặt cho công ty trước và nó đã được đăng ký thương hiệu nên ông phải đặt tên mới cho công ty bằng cách dịch tên mình ra ngôn ngữ khác. Tên của ông là “hark” trong tiếng Đức (có nghĩa là “nghe” ) và trong tiếng La tinh là Audi.
August Horch chuyển tới Berlin vào những năm 1920 và được bầu vào làm thành viên Hội đồng quản trị của Auto Union AG vào năm 1932. Tại đây, ông tiếp tục phụ trách việc phát triển công nghệ kỹ thuật mới.
“Horch sống những năm cuối đời tại Munchberg, Upper Franconia và ông mất năm 1951, hưởng thọ 83 tuổi. Hãng vẫn giữ tên Horch cho một số mẫu xe sử dụng những công nghệ do Ông phát minh. Hai trong số những kỹ sư giỏi nhất là Arnold Zoller và sau này là Paul Daimler, con trai của Gottlieb Daimler, được đưa lên phụ trách hoạt động của công ty Horch-Werke tại Zwickau.”
Mùa thu năm 1926, Horch-Werke cho ra mắt mẫu xe mới, chiếc Horch 8, sử dụng động cơ 8 xy-lanh thẳng hàng do Paul Dainler phát minh. Động cơ này nổi bật bởi sức mạnh và độ ổn định của nó. Chiếc Horch 8 trở thành biểu tượng của sự sang trọng, tinh tế và cao cấp nhất trong ngành công nghiệp ô tô.

Horch 8 Typ 470 Cabriolet sử dụng động cơ dung tích 4.5L, cho công suất 90 PS và mô-men xoắn 88 Nm, được sản xuất từ năm 1931-1932. Trọng lượng 2.000kg


Vẻ đẹp thanh lịch và rất xa hoa của Horch 8 Typ 470 Cabriolet


Năm 1931, Horch-Werke giới thiệu chiếc mui trần cabriolet sử dụng động cơ V12 tại triển lãm ô tô Paris. Từ năm 1932-1934, chỉ có 80 chiếc mui trần này được bán, do thị trường xe siêu sang đang trong thời kỳ ế ẩm


Horch Typ 670 Cabriolet 2 cửa với dung tích động cơ lên đến 6.021 cc


Đường nét thiết kế đẹp đến từng chi tiết


Động cơ của Horch Typ 670 cho công suất 120 mã lực. Tốc độ tối đa 140km/H
Horch là hãng dẫn đầu phân khúc xe hạng sang và doanh số của hãng luôn cao hơn 1/3 so với các đối thủ; Trong năm 1932, Horch bán được 773 xe tại thị trường Đức và xuất khẩu được 300 chiếc. Tuy nhiên, doanh số này vẫn chưa đủ và công ty gặp phải những khó khăn về tài chính.
2. Audi
Như thông tin đã đề cập trước đó; ngay sau khi rời khỏi công ty Horch-Werke năm 1909, Horch nhanh chóng thành lập một công ty sản xuất ô tô khác. Do tên của ông đã được đặt cho công ty trước, nên Horch đã dịch tên mình ra tiếng La tinh là Audi (có nghĩa là “nghe” ).

Logo thương hiệu Audi

Năm 1910, mẫu xe đầu tiên – Type A sử dụng thương hiệu Audi xuất hiện trên thị trường và nhanh chóng đạt được những thành công liên tiếp từ năm 1912-1914 trong cuộc đua International Austrian Alpine Run, một trong những cuộc đua đường trường khắc nghiệt nhất thế giới. Sau Thế chiến thứ I, Audi trở thành hãng đầu tiên đặt vô-lăng sang bên trái và chuyển hộp số vào giữa. Điều này cho phép việc điều khiển xe trở nên dễ dàng hơn.


Type A với động cơ 4 kỳ, 4 xy-lanh cho công suất 22 PS, tốc độ tối đa 75 km/h. Trọng lượng 830kg. Type A được sản xuất từ năm 1910-1912 với 140 chiếc được xuất xưởng


Năm 1923, mẫu xe sử dụng động cơ 6 xy-lanh đầu tiên của Audi được ra mắt. Mẫu xe này có một máy làm sạch không khí bằng dầu và trở thành một tính năng đặc biệt vào thời đó. Phải mất nhiều năm sau máy làm sạch không khí mới trở thành trang bị tiêu chuẩn trên tất cả các dòng xe. Chiếc Audi này cũng là mẫu xe đầu tiên tại Đức sử dụng hệ thống phanh thủy lực ở cả 4 bánh do chính hãng Audi nghiên cứu và phát triển.
Năm 1927, kỹ sư trưởng Heinrich Schuh cho ra đời mẫu xe sử dụng động cơ 8 xy-lanh đầu tiên của Audi. Thật không may là mẫu xe này xuất hiện quá trễ khi mà thị trường xe hạng sang đang rơi vào tình trạng khủng hoảng.

Chiếc Audi Typ R “Imperator” 5.0 trang bị động cơ 8 xy-lanh, dung tích 5.0L cho công suất 100 mã lực. Được xuất xưởng từ 1927-1929.

Năm 1928, Audi được Jorgen Skaffe Rasmussen mua lại, một nhân tố quan trọng đằng sau sự thành công của DKW.
3. DKW
Jorgen Skaffe Ramussen sinh ra tại Đan Mạch, ông thành lập công ty đầu tiên của mình DKW, tại Saxony sau khi lấy bằng kỹ sư tại Mittweida. Năm 1904, ông thành lập một công ty kỹ thuật tại Chemnitz và 3 năm sau chuyển đến Zschopau, Erzgebirge – nơi ông bắt đầu nghiên cứu xe chạy bằng động cơ hơi nước vào năm 1916. Mặc dù những nghiên cứu này không tạo ra một sản phẩm nào nhưng nó đã giúp hình thành tên thương hiệu DKW. DKW trong tiếng Đức là “Dampf Fraft Wagen” có nghĩa là “Xe sử dụng động cơ hơi nước”.

Logo thương hiệu DKW

Năm 1919, Rasmussen mua mẫu thiết kế động cơ 2 kỳ của Hugo Ruppe. Một phiên bản nhỏ của động cơ này được bán dưới dạng động cơ đồ chơi với tên gọi “The Boy’s Dream”. Động cơ nhỏ này sau đó được phát triển lớn hơn và sử dụng như một động cơ phụ.
Dưới sự điều hành của Rasmussen (cùng với giám đốc Kleine Wunder và kỹ sư trưởng Hernann Weber), DKW trở thành hãng sản xuất ô tô lớn nhất thế giới vào những năm 1920 và cũng là một trong những nhà sản xuất hàng đầu về động cơ ô tô.
Năm 1927, Rasmussen mua lại thiết kế và cơ sở sản xuất động cơ 6 và 8 xy-lanh từ một công ty ô tô ở Detroit. Hai mẫu xe mới của Audi sử dụng 2 động cơ này được tung ra thị trường (giai đoạn này đã liên kết thành Auto Union AG). Tuy nhiên, Rasmussen nhận thấy nhu cầu của thị trường và bắt tay vào sản xuất những dòng xe cỡ nhỏ.
Cuối năm 1930, Rasmussen để nhà máy tại Zwickau phát triển mẫu xe với với những đặc điểm thiết kế như: động cơ 2 xy-lanh, 2 kỳ, dung tích 600 cc, khung gầm bằng gỗ nguyên khối, bọc da giả và sử dụng hệ thống dẫn động cầu trước. Mẫu xe này được thiết kế bởi Walter haustein và Oskar Arlt với có tên là DKW – Front. DKW – Front lần đầu ra mắt tại triển lãm ô tô Berlin vào năm 1931 và nhanh chóng gặt hái được nhiều thành công.

Mẫu DKW – Front được sản xuất tại nhà máy của Audi và trở thành chiếc xe nhỏ của Đức phổ biến nhất và được sản xuất nhiều nhất vào thời điểm đó.



4. Wanderer
Wanderer được thành lập năm 1896, bởi Johann Baptist Winklhofer và Richard Adolf Jaenicke tại Chemnitz. Ban đầu hãng sản xuất xe đạp và bắt đầu sản xuất ô tô vào năm 1902.

Logo thương hiệu Wanderer

Mẫu xe đầu tiên được chạy thử vào năm 1904. Một mẫu xe cỡ nhỏ, có tên là “Puppchen”. Sau đó nó được đưa vào sản xuất đại trà vào năm 1913 và trở nên rất phổ biến.

Chiếc Wanderer W1 5/12 PS hay còn được gọi là Wanderer Puppchen, trang bị động cơ 4 xy-lanh, dung tích 1.15L, cho công suất 12 mã lực. Tốc độ tối đa 70km/h. Trọng lượng  500kg.

Không mẫu xe nào có hiệu suất cao được sản xuất, mãi đến năm 1926 khi chiếc Wanderer Type W10 với động cơ I4 dung tích 1.5L cho công suất 30 mã lực và đạt tốc độ tối đa 85km/h mới được giới thiệu ra thị trường. Mẫu xe này kết hợp tất cả những công nghệ kỹ thuật hiện đại nhất trong ngành công nghiệp ô tô thế giới lúc bấy giờ; hộp số đặt ở giữa, khớp ly hợp gồm nhiều tấm, hệ thống phanh 4 bánh và vô-lăng bên trái. Wanderer Type W10 đã được khách hàng đón nhận nồng nhiệt.


Để đáp ứng được nhu cầu tăng cao, nhà máy sản xuất mới được xây dựng tại Siegmar, ngoại ô của Chemnitz. Phụ tùng của xe vẫn được sản xuất tại nhà máy cũ và được chuyển đến nhà máy lắp ráp bằng xe lửa. Nhà máy tại Siegmar chỉ có thể chứa được số lượng phụ tùng đủ lắp ráp 25 chiếc – bằng sản lượng hằng ngày của nhà máy. Thương hiệu Wanderer đã gắn liền với sự ổn định và chất lượng vượt trội với các sản phẩm của hãng.
Đến cuối những năm 1920, Wanderer cố gắng tránh cuộc khủng hoảng bẳng cách cho ra đời nhiều mẫu xe có thiết kế hiện đại và động cơ mạnh mẽ. Tuy nhiên, bất chấp những thay đổi này, doanh số của hãng vẫn tụt giảm mạnh. Hoạt động sản xuất ô tô của Wanderer đứng bên bờ vực thẳm. Toàn bộ phân nhánh sản xuất được bán cho NSU và Janecek.
>>>> Auto Union AG

Audi, DKW, Horch & Cie và Wanderer liên kết để tạo thành Auto Union AG
Do cuộc khủng hoảng trầm trọng trong ngành công nghiệp ô tô từ những năm 1920 là một cơ duyên để; Horch & Cie, Audi, DKW và Wanderer liên kết thành Auto Union AG vào năm 1932. Dây chuyền lắp ráp và các máy móc hiện đại cho việc sản xuất lúc này tăng cao và phải mất nhiều năm mới có thể phát triển và lên kế hoạch hợp tác lâu dài.
Những biến cố thăng trầm về sự phát triển của thương hiệu Audi
Năm 1933, Auto Union tham dự triển lãm ô tô Đức lần đầu tiên sau khi sáp nhập. Audi đã tạo nên sự đột phá với những mẫu xe cỡ trung dẫn động cầu trước. Tuy nhiên nó không đạt được thành công như mong đợi.
Ý tưởng được thay đổi và vào năm 1938, chiếc Audi 920 với thiết kế hiện đại, sử dụng động cơ hiệu suất cao, được tung ra thị trường.
Động cơ mới được phát triển cho Audi 920 có công suất 75 mã lực và tốc độ tối đa lên tới 140 km/h

Chiếc Audi này nhắm đến những khách hàng muốn sở hữu chiếc xe mạnh mẽ nhưng nhỏ gọn. Nhu cầu cho chiếc Audi 920 cao đến nỗi trong hơn một năm, số lượng xe được sản xuất đều được bán hết ngay sau khi trung ra thị trường.


Trong thời gian này, tiếng tăm của DKW chủ yếu dựa vào những mẫu xe mô tô của mình. Năm 1933, hãng cho ra mắt mẫu xe với 8 phiên bản khác nhau sử dụng động cơ có dung tích từ 175 đến 600cc.
Một năm sau, chiếc RT 100 xuất hiện trên thị trường. Với thiết kế đơn giản, kết hợp được sức mạnh và mang tính kinh tế nên nó đã tồn tại suốt vài thập kỷ và vạch ra những tiêu chuẩn mới cho những mẫu mô tô sau nà

DKW RT được bán với giá 345 mác Đức và là một trong những mẫu xe được sản xuất nhiều nhất qua mọi thời đại


                                                   Chiếc DKW RT 100 đời 1935
Những mẫu ô tô cỡ nhỏ của DKW được sản xuất tại cả Berlin-Spandau (sử dụng hệ thống dẫn động cầu sau và động cơ V4 2 kỳ) và tại Zwickau (sử dụng hệ thống dẫn động cầu trước, động cơ 2 kỳ 2 xy-lanh). Tất cả động cơ được sản xuất tại Zschopau, trong khi khung gầm bằng gỗ của những mẫu xe sử dụng hệ thống dẫn động cầu trước được sản xuất tại Spandau.
Việc phát triển động cơ 2 kỳ được quan tâm rất đặc biệt. Auto Union AG đã có giấy phép của Klöckner-Humboldt-Deutz để sử dụng phát minh nguyên lý xả ngược trên động cơ 2 kỳ cho những mẫu xe cỡ nhỏ của hãng. Lợi thế của nguyên tắc này là giúp động cơ giảm tiêu thụ nhiên liệu trong khi vẫn đạt được hiệu suất cao.
Tối ưu hóa sản xuất
Những động cơ của Wanderer được tiêu chuẩn hóa và động cơ Horch V8 được thay thế bằng động cơ 6 xy-lanh thẳng hàng để đạt được hiệu suất cao hơn và ổn định hơn. Auto Union AG đã đạt được bước tiến lớn trong việc phát triển hộp số tự động và các kỹ sư của Auto Union AG đang tìm kiếm phương pháp mới để tạo hình và phát triển về thiết kế ngoại thất.
Bộ phận thiết kế của hãng nghiên cứu phá triển khí động học từ những chi tiết nhỏ nhất, sử dụng những phát minh về khí động lực học của một chuyên gia Thụy Sĩ, Paul Jaray. Những đặc tính khí động học được tính toán trên lý thuyết, rồi sau đó được kiểm tra chặt chẽ trong phòng thí nghiệm.
Phiên bản thân xe được đưa vào sản xuất cho DKW F9 có hệ số kéo ngang rất ấn tượng cD = 0.42. Đến các thập kỷ sau, đây vẫn là một con số lý tưởng cho các mẫu xe sản xuất tại Đức.

F9 với thân xe bằng thép tấm, sức mạnh được cung cấp từ động cơ 3 xy-lanh, công suất 28 mã lực. DKW F9 được dự kiến ​​đi vào sản xuất trong năm 1940 nhưng sau đó chiến tranh đã can thiệp.

 Do các cuộc chạy đua vũ trang nên sắt và cao su bị thiếu hụt nghiêm trọng, cộng với khung gầm xe bằng gỗ được bọc da quá đắt để sản xuất, Auto Union AG bắt đầu phát triển thử nghiệm thân xe bằng nhựa với sự hợp tác của Dynamit AG tại Troisdorf. Một chương trình thử nghiệm va chạm được phát triển để đánh giá độ bền của gỗ, thép và nhựa. Đây là cuộc thử nghiệm va chạm đầu tiên trong lịch sử ngành công nghiệp ô tô Đức.
Các thử nghiệm về đâm xe từ phía trước, sau và bên hông hay lật xe đều được mô phỏng tại Chemnitz. Bộ phận kỹ thuật sẽ kiểm tra và tìm hiểu tất cả các vấn đề liên quan đến chất liệu, phát triển phương pháp sản xuất và kiểm tra sự tương thích kỹ thuật của tất cả các mẫu thiết kế mới.
Bộ phận khoa học tập trung vào các mẫu động cơ trong tương lai, phát triển hộp số, nghiên cứu sự dao động, tiếng ồn và chuẩn bị cho những cuộc kiểm tra phức tạp. Bộ phận kiểm tra trên đường sẽ tiến hành các thử nghiệm thực tế hay các cuộc so sánh với các sản phẩm của đối thủ.
Auto Union AG đạt được sự tăng trưởng nhanh chóng trong nhưng năm 1933-1939, doanh thu hàng năm tăng từ 65 lên 276 triệu mác Đức và số lượng công nhân tăng từ 8.000 lên hơn 23.000 người. Sản lượng xe mô tô hàng năm tăng từ 12.000 lên 59.000 chiếc và ô tô từ 17.000 lên 67.000 chiếc. So với năm mà Auto Union AG được thành lập, sản lượng ô tô của Horch đã tăng gấp đôi trong năm 1938, Wanderer tăng 5 lần và tổng sản lượng ô tô của DKW tăng 10 lần.
Chiến tranh và phá sản
Sự bùng nổ của Thế chiến thứ II đặt dấu chấm hết cho sự phát triển này. Auto Union AG sản xuất những chiếc xe cuối cùng vào năm 1940. Từ đó trở đi, hãng bị buộc phải tập trung công việc sản xuất để phục vụ chiến tranh.
Auto Union AG tồn tại được 16 năm. Trong 3 năm cuối cùng của mình, Auto Union AG chỉ chờ đợi việc phá sản do 6 năm trước đó chiến tranh đã khiến mọi hoạt động sản xuất của công ty bị tê liệt hoàn toàn.
Những phát minh và thành công của Auto Union AG chỉ diễn ra trong vỏn vẹn 7 năm đầu thành lập. Sự sáng tạo và lành nghề của các kỹ sư tại Auto Union AG được minh chứng với hơn 3.000 bằng sáng chế được cấp tại Đức và những nơi khác. Cứ 4 chiếc xe chở người được đăng ký mới tại Đức trong năm 1938, thì có 1 chiếc do Auto Union AG sản xuất. Hơn 1/3 số xe mô tô được đăng ký mới tại Đức là của DKW. Auto Union AG đã tạo ra rất nhiều phát minh, nghiên cứu và ý tưởng đóng vai trò tiên phong cho sự ra đời của những chiếc xe hiện đại.
Sau chiến tranh, các cơ sở sản xuất của Auto Union AG bị sung công và phá hủy do sự chiếm đóng của quân đội Xô Viết. Năm 1948, Auto Union AG bị xóa tên khỏi sổ đăng ký kinh doanh tại thành phố Chemnitz. Trong thời gian này, những Giám đốc cao cấp của hãng chuyển đến Bavaria và thành lập một công ty mới tại Ingolstadt.










.











Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét